ví dụ về thỏa thuận hạn chế cạnh tranh
2. Quy định của pháp luạt về thỏa thuận bảo mật trong hợp đồng lao động theo Bộ luật Lao động 2019. Bộ luật Lao động 2019 quy định "Khi người lao động làm việc có liên quan trực tiếp đến bí mật kinh doanh, bí mật công nghệ theo quy định của pháp luật thì người sử dụng lao động có quyền thỏa thuận
Hướng xử lý mà ban soạn thảo đưa ra là lấy ngưỡng chung cho cả hai loại thoả thuận: thoả thuận hạn chế cạnh tranh bị coi là gây hạn chế cạnh tranh một cách đáng kể trên thị trường nếu các bên tham gia có thị phần kết hợp trên thị trường liên quan từ 25% trở lên (Điều 10 dự thảo).
Tìm kiếm tình huống thỏa thuận hạn chế cạnh tranh , tinh huong thoa thuan han che canh tranh tại 123doc - Thư viện trực tuyến hàng đầu Việt Nam. các ví dụ về thỏa thuận hạn chế cạnh tranh; các vụ việc thỏa thuận hạn chế cạnh tranh;
Tháng 8.2021, các công ty chip khác nói rằng giao dịch Nvidia - Arm khó có thể hoàn thành trước thời hạn ban đầu là tháng 3.2022. Cơ quan Cạnh tranh và Thị trường Vương quốc Anh có những lo ngại nghiêm trọng về thỏa thuận Nvidia - Arm sau khi hoàn thành cuộc thăm dò giai đoạn 1
Dịch COVID-19 tác động tới kinh tế Anh nhiều hơn thỏa thuận Brexit Bộ trưởng Tài chính Anh Rishi Sunak cho biết London muốn đạt được một thỏa thuận thương mại tự do với EU song tác động ngắn hạn của việc không đạt được thỏa thuận này sẽ bị che phủ bởi dịch COVID
Như vậy, mức phạt tiền đối với các hành vi vi phạm cụ thể như: Hành vi vi phạm quy định về thỏa thuận hạn chế cạnh tranh; lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, lạm dụng vị trí độc quyền; tập trung kinh tế, cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác định mức tiền
lockbesassnets1980. Quá trình cạnh tranh buộc các doanh nghiệp phải nỗ lực để đạt được lợi thế hơn so với các đối thủ. Tuy nhiên, khi phải đối mặt với cạnh tranh, không ít các doanh nghiệp đã nhìn nhận cạnh tranh như một mối hiểm họa đối với khả năng thu lợi nhuận cũng như sự tồn vong của doanh nghiệp. Vì vậy, thay vì nỗ lực điều chỉnh, nâng cao năng lực cạnh tranh để tồn tại và phát triển trong bối cảnh mới, các doanh nghiệp này đã chọn một con đường dễ dàng hơn là dàn xếp, thỏa thuận với các đối thủ cạnh tranh trên thị trường về giá cả, sản xuất, thị trường, khách hàng... nhằm duy trì thị phần và lợi nhuận kinh doanh của các doanh nghiệp tham gia thỏa thuận. Hậu quả tất yếu của thỏa thuận hạn chế cạnh tranh là sự độc quyền hóa thị trường, theo đó các vấn đề quan trọng của thị trường như giá cả, sản lượng, khách hàng,...không còn tuân thủ theo quy luật thị trường mà bị khống chế bởi một nhóm các doanh nghiệp tham gia thỏa thuận. 1. Khái niệm thỏa thuận hạn chế cạnh tranh Dưới góc độ pháp lý, có thể hiểu thỏa thuận hạn chế cạnh tranh là sự thống nhất ý chí của từ hai chủ thể kinh doanh trở lên được thể hiện dưới bất kỳ hình thức nào, có hậu quả làm giảm, sai lệch, cản trở cạnh tranh trên thị trường. Tuy nhiên, pháp luật Việt Nam không đưa ra định nghĩa cụ thể về “thỏa thuận hạn chế cạnh tranh”. Thay vào đó, Luật Canh tranh 2004 liệt kê các thỏa thuận mà nhà làm luật nhận định rằng thỏa thuận đó và chỉ các thỏa thuận đó mới là thỏa thuận hạn chế cạnh tranh tại Điều 8. Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh theo quy định pháp luật Việt Nam có những đặc điểm cơ bản sau Thứ nhất, thỏa thuận hạn chế cạnh tranh là thỏa thuận giữa các doanh nghiệp độc lập. Khái niệm doanh nghiệp theo Điều 2 Luật Cạnh tranh bao gồm cả tổ chức, cá nhân thực hiện các hoạt động kinh doanh và hiệp hội ngành nghề. Các doanh nghiệp tham gia vào thỏa thuận hạn chế cạnh tranh phải là những doanh nghiệp “hoạt động độc lập với nhau và hoàn toàn không phụ thuộc nhau về tài chính”[1]. Như vậy, thỏa thuận giữa những đơn vị thành viên hạch toán phụ thuộc trong một công ty, hay việc công ty con tuân theo các quyết định của công ty mẹ,… không được coi là thỏa thuận hạn chế cạnh tranh. Các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh có thể giữa các doanh nghiệp là đối thủ của nhau hoặc có mối liên hệ với nhau trong cùng một chuỗi sản xuất hay cung ứng sản phẩm, dịch vụ. Thứ hai, thỏa thuận hạn chế cạnh tranh, cũng như các thỏa thuận khác, cần phải có sự thống nhất về ý chí giữa các bên thỏa thuận. Đây là sự thống nhất ý chí về việc cùng hành động gây hạn chế cạnh tranh. Do đó, thỏa thuận này thường là kết quả của quá trình trực tiếp đàm phán, thương lượng giữa các bên tham gia có liên quan đến một hoặc một số nội dụng nào đó của thị trường. Có trường hợp các bên gián tiếp đạt được một thỏa thuận thỏa thuận ngầm thông qua các nghị quyết, quyết định hay hành động chung của Hiệp hội mà các bên là thành viên; hoặc biểu hiện dưới dạng các cam kết tuân thủ hoặc cam kết đáp ứng yêu cầu do một hoặc một số bên đặt ra. Tuy nhiên, các hành vi giống nhau của doanh nghiệp chưa đủ chứng minh có thỏa thuận hạn chế cạnh tranh. Chỉ có thể chứng minh đó là thỏa thuận hạn chế cạnh tranh nếu có đủ bằng chứng kết luận giữa họ đã tồn tại các thỏa thuận chính thức hoặc ngầm về vấn đề ra, cần lưu ý rằng sự thống nhất về mục đích của các bên không phải là điều kiện để xác định một thỏa thuận hạn chế cạnh tranh. Thứ ba, hậu quả của hạn chế cạnh tranh là làm giảm sức ép cạnh tranh, làm sai lệch hoặc cản trở cạnh tranh trên thị thể, đó là việc làm giảm hoặc xóa bỏ vị trí đối thủ cạnh tranh giữa các doanh nghiệp tham gia. Mặt khác, các doanh nghiệp khi tham gia thỏa thuận sẽ hình thành một nhóm doanh nghiệp có sức mạnh thị trường lớn và việc thực hiện hành vi hạn chế cạnh tranh có thể gây thiệt hại trực tiếp cho khách hàng và xã hội. Tuy nhiên, thỏa thuận hạn chế cạnh tranh chỉ đòi hỏi đảm bảo các yếu tố cấu thành về mặt hình thức. Khi xác định hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh không cần xét đến hậu quả thực tế mà chỉ cần xác định hậu quả về mặt hình thức. Hậu quả thực tế chỉ có ý nghĩa trong việc xác định mức độ trách nhiệm pháp lý hay mức phạt. Pháp luật của Liên minh Châu Âu và nhiều quốc gia khác có sự phân loại thỏa thuận hạn chế cạnh tranh gồm thỏa thuận theo chiều dọc và thỏa thuận theo chiều ngang. Trong đó - Thỏa thuận theo chiều ngang là thỏa thuận giữa các doanh nghiệp cùng ngành hàng hoạt động trên thị trường liên quan. Nói cách khác, thỏa thuận theo chiều ngang thường diễn ra giữa các doanh nghiệp là đối thủ của nhau. Trong đó, nó bao gồm cả những thỏa thuận gây nguy hại nhất cho cạnh tranh và bị mặc nhiên cấm. - Thỏa thuận theo chiều dọc là các thỏa thuận liên quan đến việc bán lại những sản phẩm từ nhà sản xuất hay nhà cung cấp. Thỏa thuận theo chiều dọc diễn ra giữa các doanh nghiệp bổ trợ lẫn nhau và có thể là khách hàng của nhau. Thỏa thuận này không tạo ra khả năng khống chế thị trường. [2] Pháp luật Việt Nam không có sự phân biệt rõ ràng thỏa thuận theo chiều ngang hay chiều dọc, mà chỉ liệt kê các trường hợp có thể bị cấm tại Điều 8 Luật Cạnh tranh và các điều kiện xác định trường hợp thỏa thuận bị cấm tại Điều 9 Luật này. 3. Các hình thức thỏa thuận hạn chế cạnh tranh Các hình thức thỏa thuận hạn chế cạnh tranh được quy định tại Điều 8 Luật Cạnh tranh 2004, cụ thể bao gồm 1. Thoả thuận ấn định giá hàng hoá, dịch vụ một cách trực tiếp hoặc gián tiếp; 2. Thoả thuận phân chia thị trường tiêu thụ, nguồn cung cấp hàng hoá, cung ứng dịch vụ; 3. Thoả thuận hạn chế hoặc kiểm soát số lượng, khối lượng sản xuất, mua, bán hàng hoá, dịch vụ; 4. Thoả thuận hạn chế phát triển kỹ thuật, công nghệ, hạn chế đầu tư; 5. Thoả thuận áp đặt cho doanh nghiệp khác điều kiện ký kết hợp đồng mua, bán hàng hoá, dịch vụ hoặc buộc doanh nghiệp khác chấp nhận các nghĩa vụ không liên quan trực tiếp đến đối tượng của hợp đồng; 6. Thoả thuận ngăn cản, kìm hãm, không cho doanh nghiệp khác tham gia thị trường hoặc phát triển kinh doanh; 7. Thoả thuận loại bỏ khỏi thị trường những doanh nghiệp không phải là các bên của thoả thuận; 8. Thông đồng để một hoặc các bên của thoả thuận thắng thầu trong việc cung cấp hàng hoá, cung ứng dịch vụ.” 4. Hậu quả pháp lý của các hình thức thỏa thuận hạn chế cạnh tranh Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh bị cấm tuyệt đối Theo khoản 1 Điều 9 Luật Cạnh tranh Việt Nam thì có 3 loại thỏa thuận được nêu tại các khoản 6, 7, 8 Điều 8 là thỏa thuận hạn chế cạnh tranh bị cấm tuyệt đối - Thỏa thuận ngăn cản, kìm hãm, không cho doanh nghiệp khác tham gia thị trường hoặc phát triển kinh doanh khoản 6 Điều 8; - Thỏa thuận loại bỏ khỏi thị trường những doanh nghiệp không phải là các bên của thỏa thuận Khoản 7 Điều 8; - Thông đồng để một hoặc các bên của thỏa thuận thắng thầu trong việc cung cấp hàng hóa, cung ứng dịch vụ Khoản 8 Điều 8. Theo cách tiếp cận của Luật Cạnh tranh Việt Nam, ba loại thỏa thuận này bị cấm tuyệt đối và không được miễn trừ bởi chúng luôn mang tính chất hạn chế cạnh tranh mà không có bất cứ một cơ sở nào để có thể biện hộ về hiệu quả của chúng đối với thị trường không thể áp dụng nguyên tắc lập luận hợp lý. Do vậy, việc xác định hành vi thỏa thuận bị cấm trong các trường hợp này không đòi hỏi phải chứng minh về sức mạnh thị trường của các doanh nghiệp tham gia thỏa thuận. Thỏa thuận hạn chế bị cấm có điều kiện và việc hưởng miễn trừ Các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh khác ngoài 3 loại thỏa thuận liệt kê tại khoản 6, 7, 8 Điều 8 là thỏa thuận hạn chế có điều kiện. Cụ thể theo Khoản 2 Điều 9“Cấm các thoả thuận hạn chế cạnh tranh quy định tại các khoản 1, 2, 3, 4 và 5 Điều 8 của Luật này khi các bên tham gia thoả thuận có thị phần kết hợp trên thị trường liên quan từ 30% trở lên.” Như vậy, bên cạnh việ tồn tại hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh thuộc khoản 1 đến khoản 5 Điều 8 Luật cạnh tranh, các bên tham gia thỏa thuận phải thỏa mãn yêu cầu “có thị phần kết hợp trên thị trường liên quan từ 30% trở lên” thì thỏa thuận đó mới bị cấm. Theo quan điểm của nhà làm luật Việt Nam Thị phần là cơ sở để xác định khả năng chi phối của doanh nghiệp đối với thị trường. Đồng thời, với mức thị phần trên thị trường liên quan từ 30% trở lên, doanh nghiệp hoặc nhóm doanh nghiệp đã có khả năng tác động đến giá cả thị trường của một loại hàng hóa hoặc dịch vụ mà họ bán hoặc mua. Khi đó, pháp luật mới phải can thiệp bởi họ có khả năng gây hạn chế cạnh tranh một cách đáng kể trên thị trường.[3]Quy định này có phần tương tự “nguyên tắc tối thiểu” de minimis principles của pháp luật Liên minh Châu Âu.[4] Các trường hợp miễn trừ Các trường hợp miễn trừ chỉ được áp dụng với nhóm thỏa thuận hạn chế cạnh tranh bị cấm có điều kiện. Điều kiện miễn trừ được quy định tại Khoản 1 Điều 10 Luật Cạnh tranh. Cụ thể các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh từ khoản 1 tới khoản 5 Điều 8 sẽ được miễn trừ nếu nhằm mục đích giảm giá thành, có lợi cho người tiêu dùng, và đáp ứng một trong các điều kiện dưới đây “a Hợp lý hoá cơ cấu tổ chức, mô hình kinh doanh, nâng cao hiệu quả kinh doanh; b Thúc đẩy tiến bộ kỹ thuật, công nghệ, nâng cao chất lượng hàng hoá, dịch vụ; c Thúc đẩy việc áp dụng thống nhất các tiêu chuẩn chất lượng, định mức kỹ thuật của chủng loại sản phẩm; d Thống nhất các điều kiện kinh doanh, giao hàng, thanh toán nhưng không liên quan đến giá và các yếu tố của giá; đ Tăng cường sức cạnh tranh của doanh nghiệp nhỏ và vừa; e Tăng cường sức cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam trên thị trường quốc tế.” Các trường hợp miễn trừ được xây dựng dựa trên nguyên tắc lập luận hợp lý rule of reason theo thông lệ quốc tế. Theo đó, một thỏa thuận hạn chế cạnh tranh vẫn có thể được thực hiện nếu xét thấy lợi ích đối với nền kinh tế và người tiêu dùng lớn hơn tác động hạn chế cạnh tranh. Tuy nhiên, theo quan điểm trong Giáo trình Luật cạnh tranh của Trường Đại học Luật Hà Nội, pháp luật Việt Nam hiện nay còn thiếu 2 điều kiện quan trọng để hưởng miễn trừ là i việc thực hiện thỏa thuận hạn chế cạnh tranh là cần thiết và không thể tránh khỏi để thực hiện các mục tiêu tại Điều 10; ii việc thực hiện thỏa thuận hạn chế cạnh tranh không tạo cho các doanh nghiệp khả năng loại bỏ một cách đáng kể đối với hàng hóa và dịch vụ có liên quan.[5]Bởi lẽ, rủi ro và thiệt hại trong tương lai lâu dài mà thỏa thuận hạn chế cạnh tranh không đáp ứng hai điều kiện nêu trên mang lại có thể sẽ lớn hơn rất nhiều lợi ích nó mang lại hiện tại. Ngoài ra, quan điểm này cũng bổ sung thêm việc nên có một thời hạn đối với việc thực hiện các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh được miễn trừ này. Ngày 15/9/2008 tại Resort Sài Gòn – Mũi Né, Hiệp hội Bảo hiểm Việt Nam HHBHVN đã chủ trì tổ chức Hội nghị thường niên các Tổng giám đốc phi nhân thọ lần thứ 6 CEO PNT 6. Tại CEO PNT 6, 15 doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ DNBH đã ký thỏa thuận hợp tác trong các lĩnh vực bảo hiểm hàng hóa, bảo hiểm tàu biển và bảo hiểm xe cơ giới. Sau đó, có thêm bốn DNBH cũng muốn tham gia ký kết, nâng tổng số doanh nghiệp tham gia lên 19 doanh nghiệp, bao gồm 1. Công ty cổ phần Bảo hiểm Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam ABIC; 2. Công ty cổ phần Bảo hiểm Nhà Rồng Bảo Long; 3. Tổng công ty cổ phần Bảo Minh Bảo Minh; 4. Công ty liên doanh TNHH Bảo hiểm châu Á Ngân hàng Công thương Bảo Ngân; 5. Công ty cổ phần Bảo hiểm Bảo Tín Bảo Tín; 6. Tổng công ty Bảo hiểm Bảo Việt Bảo Việt; 7. Công ty Bảo hiểm Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam BIC; 8. Công ty cổ phần Bảo hiểm Quân đội MIC; 9. Công ty cổ phần Bảo hiểm Petrolimex PJICO; 10. Công ty cổ phần Bảo hiểm Bưu điện PTI; 11. Tổng công ty cổ phần Bảo hiểm Dầu khí PVI; 12. Công ty liên doanh TNHH Bảo hiểm SAMSUNG – VINA Samsung – Vina; 13. Công ty cổ phần Bảo hiểm Toàn cầu Toàn Cầu; 14. Công ty cổ phần Bảo hiểm Viễn Đông VASS; 15. Công ty liên doanh Bảo hiểm Quốc tế Việt Nam VIA; 16. Công ty cổ phần Bảo hiểm AAA AAA; 17. Công ty TNHH Bảo hiểm FUBON Việt Nam FUBON; 18. Công ty TNHH Tổng hợp Groupama Groupama; 19. Công ty cổ phần Bảo hiểm Hàng không Việt Nam VNI. Các bản thỏa thuận được 19 DNBH ký kết bao gồm Bốn bản thỏa thuận hợp tác giữa các DNBH trong lĩnh vực bảo hiểm hàng hóa; trong lĩnh vực bảo hiểm tàu biển; bảo hiểm xe cơ giới; và Điều khoản biểu phí bảo hiểm vật chất xe ô – tô. Các bản thỏa thuận được thực hiện từ ngày 01/10/2008. Thị trường mà 19 DNBH hướng tới trong các bản thỏa thuận chính là thị trường có phạm vi toàn quốc và ngay ở thời điểm ký kết, thị phần của 19 DNBH này là 99,79%. Các bản thỏa thuận này đều có quy định về chế tài cụ thể, thể hiện ý chí tự nguyện của các bên tham gia. Theo các “khổ chủ”, nguyên nhân của việc rủ nhau ký kết các bản thỏa thuận là do các doanh nghiệp này đang phải đối mặt với tình trạng cạnh tranh gay gắt, chủ yếu thông qua các chính sách hạ phí bảo hiểm, trả phí hoa hồng và tăng chi phí hỗ trợ đại lý… Ngày 18/11/2008, Cục trưởng Cục Quản lý cạnh tranh ra Quyết định số 93/QĐ – QLCT về việc điều tra sơ bộ vụ việc cạnh tranh liên quan đến hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh. Ngày 28/11/2008, Cục trưởng Cục Quản lý cạnh tranh ra Quyết định số 99/QĐ – QLCT về việc việc điều tra chính thức vụ việc cạnh tranh đối với 19 DNBH. Ngày 02 tháng 10 năm 2009, Cục Quản lý cạnh tranh chuyển Hồ sơ vụ việc KNCT-HCCT-0009 đến Hội đồng Cạnh tranh. Ngày 15 tháng 01 năm 2010, Hội đồng Xử lý vụ việc Cạnh tranh ra Quyết định số 02/QĐ-HĐXL về việc trả hồ sơ để điều tra bổ sung. Ngày 29 tháng 4 năm 2010, Cục trưởng Cục Quản lý cạnh tranh có Kết luận điều tra bổ sung vụ việc KNCT-HCCT-0009 chuyển đến Hội đồng Cạnh tranh. Hội đồng Xử lý vụ việc Cạnh tranh đã quyết định mở Phiên điều trần công khai từ ngày 27 tháng 7 năm 2010 để xử lý vụ việc cạnh tranh. Tại Phiên điều trần, Hội đồng đã xác định thị phần kết hợp của 19 doanh nghiệp bảo hiểm tham gia thỏa thuận chiếm tỷ lệ Xác định thị trường liên quan và thị phần của 19 doanh nghiệp bảo hiểm a. Xác định thị trường liên quan Thị trường sản phẩm liên quan - Khả năng thay thế về cầu Trên thị trường có nhiều công ty cùng cung cấp một loại hàng hóa đó là bảo hiểm vật chất xe ô tô và các sản phẩm của các công ty đó đều là bảo hiểm, cùng nhằm mục đích bảo hiểm cho đối tượng đó là ô tô, sự khác biệt về giá cả đối với loại sản phẩm bảo hiểm này của mỗi công ty là không lớn và người tiêu dùng có thể mua sản phẩm bảo hiểm này trên thị trường bằng một cách không quá khó khăn. - Khả năng thay thế về cung trong việc kinh doanh bảo hiểm, một công ty bảo hiểm có thể phân thành nhiều loại bảo hiểm để bán phụ thuộc vào nhu cầu và mục đích của khách hàng. Mặc dù từ góc độ của khách hàng thì các loại bảo hiểm này là khác nhau và không thể thay thế cho nhau do chúng có đặc tính sử dụng và mục đích sử dụng là khác nhau nhưng do chúng cùng được một công ty bảo hiểm bán và cùng có cùng tính chất bảo hiểm. Như vậy từ việc phân tích khả năng thay thế về cung và khả năng thay thế về cầu, có thể xác định thị trường sản phẩm liên quan trong vụ việc ở đây đó là “Thị trường kinh doanh bảo hiểm vật chất cho xe ô tô”. Thị trường địa lý liên quan Thị trường địa lý liên quan là “một khu vực địa lý cụ thể nơi các doanh nghiệp có liên quan tham gia bán hoặc mua hàng hóa hoặc dịch vụ trong những điều kiện cạnh tranh tương tự và các điều kiện cạnh tranh tại khu vực này phải khác biệt đáng kể so với các điều kiện cạnh tranh tại các khu vực lân cận”[6]. Như vậy, theo định nghĩa trên, có thể xác định thị trường địa lý liên quan ở vụ việc này đó là “tại Việt Nam”. Qua phân tích về thị trường sản phẩm liên quan và thị trường địa lý liên quan, có thể xác định thị trường liên quan trong vụ việc đó là “Thị trường kinh doanh bảo hiểm vật chất cho xe ô tô tại Việt Nam”. Theo quy định tại Điều 3 Luật Cạnh tranh, thị phần của doanh nghiệp đối với một loại hàng hóa, dịch vụ là tỷ lệ phần trăm giữa doanh thu bán ra của doanh nghiệp này với tổng doanh thu bán ra của tất cả doanh nghiệp kinh doanh loại hàng hóa, dịch vụ đó trên thị trường liên quan, hoặc tỷ lệ phần trăm giữa doanh số mua vào của doanh nghiệp này với tổng doanh số mùa vào của tất cả các doanh nghiệp kinh doanh loại hàng hóa, dịch vụ đó trên thị trường liên quan theo tháng, quý, năm. Thị phần kết hợp là tổng thị phần trên thị trường liên quan của các doanh nghiệp tham gia vào thỏa thuận hạn chế cạnh tranh hoặc tập trung kinh tế. Từ đó, có thể xác định, thị phần kết hợp của thỏa thuận này là tổng thị phần của 19 DNBH trên thị trường kinh doanh bảo hiểm vật chất cho xe ô tô tại Việt Nam. Cụ thể, Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh đã xác định thị phần kết hợp của 19 doanh nghiệp bảo hiểm tham gia thỏa thuận chiếm tỷ lệ Các thỏa thuận của 19 doanh nghiệp bảo hiểm này có vi phạm pháp luật cạnh tranh hay không? Xem xét hành vi thỏa thuận của 19 doanh nghiệp bảo hiểm này có vi phạm pháp luật cạnh tranh hay không, chúng ta sẽ cùng phân tích những đặc điểm của hành vi thỏa thuận này của 19 doanh nghiệp bảo hiểm Thứ nhất, về chủ thể tham gia là 19 doanh nghiệp bảo hiểm hoàn toàn độc lập trên thị trường, đều là các doanh nghiệp bảo hiểm khá nổi doanh nghiệp này tham gia thỏa thuận hoạt động độc lập với nhau và hoàn toàn không phụ thuộc với nhau về tài chính. Thứ hai, sự thống nhất cùng hành động giữa các doanh nghiệp tham gia thỏa thuận được thể hiện một cách công khai đó là thỏa thuận trong khuôn khổ tổ chức Hội nghị thường niên các Tổng giám đốc phi nhân thọ lần thứ 6 CEO PNT 6 và các thỏa thuận này được thông cáo báo chí và các phương tiện truyền thông đại chúng. Các doanh nghiệp này có sự thống nhất ý chí cùng hành động để gây hạn chế cạnh tranh đó làkhông hạ phí, đồng thời thống nhất áp dụng mức phí 1,56% thu của khách mua bảo hiểm xe ôtô[7]. Đương nhiên, có thể hiểu rằng việc quyết định thỏa thuận nói trên đã được các đơn vị suy tính, nghiên cứu kỹ và nhằm tránh đối đầu trực tiếp trong hoạt động thu hút khách hàng với nhau, đồng thời tạo ra một mặt bằng về phí của riêng nhóm. Từ đó, 19 doanh nghiệp này cũng có cơ hội lớn hơn, mang tính áp đảo và có điều kiện thuận lợi hơn để có được một thị phần lớn hơn trong tổng dung lượng thị trường bảo hiểm xe ôtô cả nước, đồng thời hạn chế cạnh tranh đối với những doanh nghiệp khác. Thứ ba, hậu quả của thỏa thuận này có thể làm giảm sức ép cạnh tranh, làm sai lệch hoặc cản trở cạnh tranh trên thị trường. Thỏa thuận này gây ra cho thị trường sự xóa bỏ cạnh tranh, các đối thủ trên thị trường sẽ không còn cạnh tranh nữa, bởi vì 19 doanh nghiệp bảo hiểm này đều là những doanh nghiệp bảo hiểm lớn và có thị phần kết hợp lên tới 99,79% và những doanh nghiệp này có lượng khách hàng rất hùng hậu và doanh thu tương đối lớn[8]. Hậu quả của nó có ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của người tiêu dùng và gây thiệt hại cho các doanh nghiệp không tham gia việc thỏa thuận, cụ thể là 6 doanh nghiệp còn lại trong thị trường bảo hiểm chỉ chiếm 0,21% thị phần, một con số rất nhỏ. Từ những phân tích về đặc điểm hành vi thỏa thuận của 19 doanh nghiệp bảo hiểm, chúng ta có thể nhận định đây chính là hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh theo quy định của Luật cạnh tranh năm 2004. Cụ thể hành vi này chính là hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh bằng cách ấn định giá hàng hóa dịch vụ một cách gián tiếp theo quy định tại Khoản 1 Điều 8 Luật cạnh tranh năm 2004. Các thỏa thuận này có thuộc trường hợp được miễn trừ theo pháp luật cạnh tranh hay không? Phạm vi các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh được miễn trừ bao gồm 5 dạng hành vi được xem xét cấm theo nguyên tắc hợp lý, nghĩa là bị cấm khi thị phần kết hợp trên thị trường liên quan của các bên tham gia từ 30% trở lên. Cụ thể, theo Điều 10 Luật cạnh tranh 2004, chỉ những thỏa thuận hạn chế cạnh tranh quy định tại khoản 2, Điều 9 mới thuộc phạm vi các thỏa thuận được xem xét miễn trừ có thời hạn. Các thỏa thuận nêu trên được miễn trừ có thời hạn nếu đáp ứng một trong các điều kiện sau đây nhằm hạ giá thành, có lợi cho người tiêu dùng - Hợp lý hoá cơ cấu tổ chức, mô hình kinh doanh, nâng cao hiệu quả kinh doanh; - Thúc đẩy tiến bộ kỹ thuật, công nghệ, nâng cao chất lượng hàng hoá, dịch vụ; - Thúc đẩy việc áp dụng thống nhất các tiêu chuẩn chất lượng, định mức kỹ thuật của chủng loại sản phẩm; - Thống nhất các điều kiện kinh doanh, giao hàng, thanh toán nhưng không liên quan đến giá và các yếu tố của giá; - Tăng cường sức cạnh tranh của doanh nghiệp nhỏ và vừa; - Tăng cường sức cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam trên thị trường quốc tế. Để được hưởng miễn trừ, các bên tham gia thỏa thuận phải thực hiện thủ tục đề nghị hưởng miễn trừ quy định từ Điều 25 đến Điều 38 Luật Cạnh tranh. Từ vụ việc, có thể thấy, thị phần kết hợp của 19 doanh nghiệp bảo hiểm tham gia thỏa thuận chiếm tỷ lệ vượt quá ngưỡng 30% và thỏa thuận này là hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh bằng cách ấn định giá hàng hóa dịch vụ một cách gián tiếp theo quy định tại Khoản 1 Điều 8 Luật Cạnh tranh năm 2004. Do đó, thỏa thuận này bị cấm theo Khoản 2 Điều 9 Luật cạnh tranh 2004. Đồng thời, thỏa thuận này cũng không đáp ứng các điều kiện quy định tại khoản 1 Điều 10, do đó,theo quy định của pháp luật cạnh tranh, hành vi thỏa thuận về biểu phí cũng như công thức tính phí bảo hiểm với xe ô tô của 19 doanh nghiệp bảo hiểm không được miễn trừ. Tác động đến thị trường bảo hiểm và đối với đối tượng mua bảo hiểm bởi các thỏa thuận này như thế nào?[9] Trong số các hành vi bị cấm thì hành vi hạn chế cạnh tranh mà các doanh nghiệp gây ra trên thị trường là nghiêm trọng nhất, theo quy định của Luật Cạnh tranh, thường bị xử phạt rất nặng. “Theo nguyên tắc nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp phải cạnh tranh để tạo ra cơ hội cho người tiêu dùng lựa chọn sản phẩm phù hợp với yêu cầu của các Doanh nghiệp bắt tay nhau, hạn chế cạnh tranh thì sẽ bị xử phạt để trả lại cho thị trường sự minh bạch”[10]. Đối với vụ việc 19 doanh nghiệp bảo hiểm trên, qua tìm hiểu, một số tác động liên quan của vụ việc đến thị trường bảo hiểm và đối tượng mua bảo hiểm được khái quát như sau Mức độ gây hạn chế cạnh tranh Xét trên khía cạnh các doanh nghiệp bảo hiểm 19 doanh nghiệp bảo hiểm ký kết thoả thuận đã triệt tiêu cạnh tranh giữa 19 doanh nghiệp bảo hiểm tham gia ký kết; Xét khía cạnh người mua bảo hiểm tạo mặt bằng chung phí bảo hiểm xe cơ giới làm hạn chế quyền lựa chọn của người mua bảo hiểm. Khả năng gây hạn chế cạnh tranh của các đối tượng khácCó tới 19/25 doanh nghiệp bảo hiểm tham gia ký kết chiếm tới 99,79% thị trường dịch vụ bảo hiểm vật chất ô tô trên toàn quốc nên gây hạn chế đáng kể. Thời gian thực hiện vi phạmChỉ hơn 50 ngày, giữa các doanh nghiệp bảo hiểm tiến hành không đồng đều vì vậy không phải là yếu tố quan trọng cần xem xét mức độ vi phạm. Mức độ thiệt hại do hành vi vi phạm19 doanh nghiệp bảo hiểm chiếm 99,79% thị phần, thời gian vi phạm chưa dài, các doanh nghiệp bảo hiểm đã chấm dứt thực hiện thoả thuận nên mức độ thiệt hại cho người mua bảo hiểm đã được giảm thiểu. Khoản lợi nhuận thu được từ hành vi vi phạmDo thời gian thực hiện thoả thuận chưa dài nên khoản lợi nhuận 19 doanh nghiệp bảo hiểm thu được từ thống nhất thoả thuận không phản ánh chính xác tác động của hành vi và không là yếu tố quan trọng khi xem xét mức độ xử lý. Đối với hành vi vi phạm pháp luật cạnh tranh Tại Phiên điều trần, Hội đồng Xử lý vụ việc cạnh tranh nhận định hành vi ký bản thỏa thuận của 19 doanh nghiệp là hành vi quy định tại khoản Điều 8 Luật Cạnh tranh về thỏa thuận ấn định giá hàng hóa, dịch vụ một cách trực tiếp hoặc gián đồng đã xác định thị phần kết hợp của 19 doanh nghiệp bảo hiểm tham gia thỏa thuận chiếm tỷ lệ cạnh đó, 19 doanh nghiệp bảo hiểm hoàn toàn độc lập trên thị trường, đều là các doanh nghiệp bảo hiểm khá nổi doanh nghiệp này tham gia thỏa thuận hoạt động độc lập với nhau và hoàn toàn không phụ thuộc với nhau về tài chính. Như vậy, bằng việc ký kết thỏa thuận, 19 doanh nghiệp đã triệt tiêu cạnh tranh về mức phí bảo hiểm trên hầu như toàn bộ thị trường liên quan. Bên bị điều tra đã vi phạm Khoản 2 Điều 9 Luật Cạnh tranh về các thoả thuận hạn chế cạnh tranh bị cấm. Ở đây nhóm chúng em đồng tình với những nhận định của Hội đồng xử lý vụ việc canh tranh, bởi Theo quy định tại Điều 9 Luật Cạnh tranh về các thoả thuận hạn chế cạnh tranh bị cấm “1. Cấm các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh quy định tại các khoản 6, 7 và 8 Điều 8 của Luật này. 2. Cấm các thoả thuận hạn chế cạnh tranh quy định tại các khoản 1, 2, 3, 4 và 5 Điều 8 của Luật này khi các bên tham gia thoả thuận có thị phần kết hợp trên thị trường liên quan từ 30% trở lên.” Ở đây, 19 doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm đã có hành vi vi phạm theo quy định tại Khoản 1 Điều 8 Thoả thuận ấn định giá hàng hoá, dịch vụ một cách trực tiếp hoặc gián tiếp. Theo Điều 14 Nghị định 116/2005/NĐ – CP thì bản chất thoả thuận ấn định giá hàng hoá, dịch vụ một cách trực tiếp hay gián tiếp là việc thống nhất cùng hành động dưới một trong các hình thức sau đây +Áp dụng thống nhất mức giá với một số hoặc tất cả khách hàng; + Tăng giá hoặc giảm giá ở mức cụ thể; +Áp dụng công thức tính giá chung; +Duy trì tỷ lệ cố định về giá của sản phẩm liên quan; + Không chiết khấu giá hoặc áp dụng mức chiết khấu giá thống nhất; +Dành hạn mức tín dụng cho khách hàng; +Không giảm giá nếu không thông báo cho các thành viên khác của thoả thuận; +Sử dụng mức giá thống nhất tại thời điểm các cuộc đàm phán về giá bắt đầu. Trong vụ việc này thì 19 doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm đã cùng nhau ký kết Bốn bản thỏa thuận hợp tác giữa các doanh nghiệp bảo hiểm trong lĩnh vực bảo hiểm hàng hóa; trong lĩnh vực bảo hiểm tàu biển; bảo hiểm xe cơ giới; và Điều khoản biểu phí bảo hiểm vật chất xe ô-tô và các bản thỏa thuận được thực hiện từ ngày 1-10-2008. Trong tất cả các bản thỏa thuận này đều có quy định về chế tài cụ thể nếu các bên vi phạm, thể hiện ý chí tự nguyện của các bên tham gia. Cùng với đó thì Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh cũng đã xác định thị phần kết hợp của 19 doanh nghiệp bảo hiểm tham gia thỏa thuận chiếm tỷ lệ đã vượt quá 30% theo quy định tại Khoản 2 Điều 9 Luật Cạnh tranh. Từ các dẫn trên chúng ta hoàn toàn có căn cứ cho rằng 19 doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm đã có hành vi thỏa thuận ấn định giá hàng hóa, dịch vụ một cách trực tiếp hoặc gián tiếp mà Luật Cạnh tranh cấm. Đối với mức xử phạt mà Hội đồng cạnh tranh đã tuyên bố áp dụng đối với 19 Doanh nghiệp bảo hiểm. Ngày 29 tháng 7 năm 2010, Hội đồng Cạnh tranh đã tuyên bố quyết định phạt tiền các doanh nghiệp tham gia thỏa thuận với tổng số tiền phạt và tiền phí là đồng. Theo quan điểm của nhóm thì mức xử phạt như vậy là còn nhẹ bởi Xét về hậu quả 19 doanh nghiệp bảo hiểm này đều là những doanh nghiệp bảo hiểm lớn và có thị phần kết hợp lên tới 99,79% và những doanh nghiệp này có lượng khách hàng rất hùng hậu và doanh thu tương đối lớn[11]. Hậu quả của nó có ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của người tiêu dùng và gây thiệt hại cho các doanh nghiệp không tham gia việc thỏa thuận, cụ thể là 6 doanh nghiệp còn lại trong thị trường bảo hiểm chỉ chiếm 0,21% thị phần, một con số rất nhỏ. Cục quản lý cạnh tranh đề xuất mức xử phạt 0,1% lợi nhuận năm liền trước của các DN, nhưng hội đồng lại quyết định mức phạt 0,025%. Có thể thấy mức phạt này là quá nhẹ bởi Luật cạnh tranh cho phép xử phạt từ 5% - 10%. Điều 8 Nghị định 71/2014 quy định Hành vi thỏa thuận ấn định giá hàng hóa, dịch vụ một cách trực tiếp hoặc gián tiếp Phạt tiền đến 10% tổng doanh thu trong năm tài chính trước năm thực hiện hành vi vi phạm của từng doanh nghiệp là các bên tham gia thỏa thuận có thị phần kết hợp trên thị trường liên quan từ 30% trở lên đối với hành vi thỏa thuận áp dụng thống nhất mức giá với một số hoặc tất cả khách hàng. III. Một số hạn chế và kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về hành vi thỏa thuậnhạn chế cạnh tranh 1. Một số hạn chế Thông qua tranh chấp trong vụ việc hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh của 19 công ty bảo hiểm có thể khẳng định bên cạnh một số những thành tựu đã đã đạt được thì các quy định của Luật Cạnh tranh về hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh vẫn còn nhiều những bất cập, khó khăn khi đưa vào thực tế áp dụng, chưa thực sự điều chỉnh được hết những vấn đề phát sinh trong thực tế. Cụ thể Thứ nhất, tuy đã có văn bản dưới luật hướng dẫn chi tiết quy định của Luật cạnh tranh năm 2004 về hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh nói chung và hành vi thỏa thuận ấn định giá hàng hóa, dịch vụ một cách trực tiếp và gián tiếp nói riêng là nghị định 116/2005/NĐ-CP nhưng nhìn chung vẫn còn những quy định chưa cụ thể và chi tiết. Điều 8 Luật cạnh tranh năm 2004 quy định về các hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh, ngoài việc liệt kê 8 hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh cụ thể và Điều 9 quy định các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh bị cấm một cách nghiêm ngặt. Lẽ ra đây là một quy định chặt chẽ nhằm tạo điều kiện cho việc áp dụng luật được linh hoạt. Thế nhưng quy định này ngay lập tức bị lỏng lẻo và khó áp dụng khi có các trường hợp miễn trừ đối với thỏa thuận hạn chế cạnh tranh bị cấm quy định tại điều 10 Luật cạnh tranh 2004. Quy định các trường hợp miễn trừ đối với thỏa thuận hạn chế cạnh tranh bị cấm nhưng lại không quy định cụ thể, chi tiết về mức độ thực hiện các điều kiện nhằm hạ giá thành, có lợi cho người tiêu dùng của các doanh nghiệp và cơ quan chịu trách nhiệm giám sát, giám định việc thực hiện của các doanh vậy dẫn đến việc áp dụng luật còn gặp rất nhiều khó khăn và gây tranh cãi. Thứ hai,hành vi thỏa thuận ấn định giá hang hóa, dịch vụ một cách trực tiếp và gián tiếp mặc dù được quy định trong Luật Cạnh tranh, nhưng nội dung của nó còn chung chung, vẫn chưa được hướng dẫn một cách triệt để, tính khả thi không cao và chưa thống nhất. Thứ ba, pháp luật cạnh tranh và các văn bản có liên quan khác đều quy định về cách thức biểu hiện của của hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranhđược đưa ra dưới dạng liệt kê, vì vậy các hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranhđược đưa ra chưa đầy đủ. Điều 8 Luật Cạnh tranh năm 2004 đã liệt kê các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh như Thỏa thuận ấn định giá hang hóa, dịch vụ một cách trực tiếp hoặc gián tiếp; Thỏa thuận phân chia thị trường tiêu thụ, nguồn cung cấp hàng hóa, cung ứng dịch vụ; Thỏa thuận hạn chế hoặc kiểm soát số lượng, khối lượng sản xuất, mua bán hang hóa, dịch vụ; Thỏa thuận hạn chế phát triển kỹ thuật, công nghệ, hạn chế đầu tư; Thỏa thuận áp đặt cho doanh nghiệp các điều kiện ký kết hợp đồng mua bán hang hóa, dịch vụ hoặc buộc doanh nghiệp khác chấp nhận các nghĩa vụ không lien quan trực tiếp đến đối tượng của hợp đồng; Thỏa thuận ngăn cản, kèm hãm, không cho doanh nghiệp khác tham gia thị trường hoặc phát triển kinh doanh; Thỏa thuận loại bỏ khỏi thị trường những doanh nghiệp không phải là các bên của thỏa thuận; Thông đồng để một hoặc các bên của thỏa thuận thắng thầu trong việc cung cấp hàng hóa, cung ứng dịch vụ. Tuy nhiên bên cạnh loại thỏa thuận hạn chế cạnh tranh thông thường này, trên thực tế còn tồn tại nhiều dạng hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh khác đang tồn tại hoặc là sẽ xuất hiện trong tương lai. 2. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật Thứ nhất,cần ban hành văn bản hướng dẫn chi tiết các quy định của Luật cạnh tranh năm 2004 về các hành vithỏa thuận hạn chế cạnh tranh. Trong đó, đối với hành vi thỏa thuận ấn định giá hàng hóa, dịch vụ một cách trực tiếp hoặc gián tiếp tuy đã được quy định chi tiết hơn trong Nghị định 116/2005/NĐ – CP nhưng nên được giải thích chi tiết, đưa ra định nghĩa cụ thể cho mỗi loại hành vi. Thứ hai, đối với các trường hợp miễn trừ đối cới thỏa thuận hạn chế cạnh tranh bị cấm cần phải quy định một cách chi tiết, cụ thể rõ rang hơn trong quy định tại điều 10 Luật Cạnh tranh và trong văn bản hướng dẫn của Luật Cạnh tranh là nghị định 116/2005/NĐ – CP. Bởi nếu không quy định cụ thể và chặt chẽ thì quy định này dễ trở thành lỗ hổng, khe hở để các doanh nghiệp tìm cách lách luật, trồn tránh nghĩa vụ khi có hành vi hạn chế cạnh tranh. Vì vậy cần phải quy định rõ mức độ của doanh nghiệp khi thực hiện các điều kiện nhằm hạ giá thành, có lợi cho người tiêu dung cũng như quy định cơ quan giám định mức độ thực hiện điều kiện này của doanh nghiệp. Thứ ba, mức phạt tiền đối với các hành vi vi phạm cụ thể như Hành vi vi phạm quy định về thỏa thuận hạn chế cạnh tranh nói riêng và các hành vi khác như lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, lạm dụng vị trí độc quyền; tập trung kinh tế, cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác định mức tiền phạt dựa trên hai yếu tố là số % được quy định đối với từng hành vi vi phạm và tổng doanh thu của doanh nghiệp vi phạm trong năm tài chính trước năm thực hiện hành vi vi phạm. Việc quy định mức phạt tiền đối với hành vi vi phạm pháp luật trong hiện tại dựa trên cơ sở mức doanh thu của đối tượng vi phạm đã thực hiện trong quá khứ, quy định như vậy không phản ảnh đúng mức trách nhiệm pháp lý phải chịu tương xứng với tính chất, mức độ hành vi vi phạm mà nguyên tắc đó chính là một trong những nguyên tắc cơ bản của việc xử lý vi phạm hành chính . Nội dung này cần được nghiên cứu, quy định lại cho phù hợp theo hướng dựa trên hậu quả gây ra do hành vi vi phạm phạm luật của đối tượng vi phạm. Thứ tư, cũng cần phải nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ của cán bộ, công chức, viên chức là công tác phát hiện và chống lại hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh, xây dựng các bộ máy đầy đủ về lực lượng và cơ sở vật chất thực hiện nhiệm vụ. Thực hiện kiểm soát, kiểm toán nội bộ nhằm phòng chống các biểu hiện tiêu cực trong quá trình hoạt động. Các cơ quan quản lý Nhà nước cần thường xuyên theo sát diễn biến thị trường, tăng cường kiểm tra, phát hiện và xử lý nghiêm khắc các hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh nói chung và hành vi thỏa thuận ấn định giá hang hóa, dịch vụ một cách trực tiếp hoặc gián tiếp nói riêng một cách thận trọng, khách quan. Cùng với sự phát triển kinh tế, xã hội thì các dạng thức kinh doanh của doanh nghiệp cũng ngày càng trở nên đa dạng, phong phú, theo đó hành vi của doanh nghiệp cũng có xu hướng biến đổi không ngừng nhằm đạt được mục tiêu lợi nhuận, đặc biệt trong các môi trường cạnh tranh khốc liệt. Do đó, các hình thức thỏa thuận hạn chế cạnh tranh cũng ngày càng được doanh nghiệp biến hóa nhằm đối phó với các cơ quan cạnh tranh. Vậy nên không chỉ cần phải hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật, mà các cơ quan cạnh tranh Việt Nam cần phải có những biện pháp thực thi hiệu quả để thực sự đưa Luật Cạnh tranh đi vào cuộc sống, góp phần cải thiện môi trường kinh doanh cũng như văn hóa cạnh tranh của doanh nghiệp. [1] Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật Cạnh tranh, Nxb. CAND, Hà Nội, 2014, [2] Theo Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật Cạnh tranh, Nxb. CAND, Hà Nội, 2014, tr. 132. [4] Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật cạnh tranh, sđd [5] Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật cạnh tranh, sđd [6] Giáo trình Luật cạnh tranh- Trường ĐH Luật Hà Nội- NXB CAND năm 2016- Trang 76, 77 [7] Số liệu mức biểu phí xem [8] Ví dụ Công ty bảo hiểm dầu khí Việt Nam PVI vào năm 2008 có mức doanh thu đạt tỷ đồng, là một mức doanh thu khá lớn so với thời bấy giờ. Số liệu xem tại [9] Tham khảo nguồn [10] Trích lời Ông Bạch Văn Mừng, Cục trưởng Cục Quản lý Cạnh tranh năm 2010 [11] Ví dụ Công ty bảo hiểm dầu khí Việt Nam PVI vào năm 2008 có mức doanh thu đạt tỷ đồng, là một mức doanh thu khá lớn so với thời bấy giờ. Số liệu xem tại
Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh tiếng Anh Anti-competitive agreements là sự thống nhất ý chí của từ hai chủ thể kinh doanh trở lên được thể hiện dưới bất kì hình thức nào, có hậu quả làm giảm, sai lệch, cản trở cạnh tranh trên thị trường. Hình minh họa Nguồn thuận hạn chế cạnh tranh Anti-competitive agreementsKhái niệmThỏa thuận hạn chế cạnh tranh trong tiếng Anh là Anti-competitive góc độ pháp lí có thể hiểu "Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh là sự thống nhất ý chí của từ hai chủ thể kinh doanh trở lên được thể hiện dưới bất kì hình thức nào, có hậu quả làm giảm, sai lệch, cản trở cạnh tranh trên thị trường". trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật Cạnh tranh, NXB CAND, 2011, ngữ liên quanLuật Cạnh tranh 2004 của Việt nam không đưa ra khái niệm thế nào là thỏa thuận cạnh hạn chế cạnh tranh, mà chỉ coi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh là một trong các dạng hành vi hạn chế cạnh tranh điển hình. Tại khoản 3, Điều 3 Luật Cạnh tranh 2004 qui định "hành vi hạn chế cạnh tranh là hành vi làm giảm sai lệch và cản trở cạnh tranh trên thị trường".Dấu hiệu nhận diện hành vi thỏa thuận cạnh tranh trên thị trường- Chủ thể tham gia thỏa thuận hạn chế cạnh tranh là các doanh nghiệp hoạt động độc lập- Các doanh nghiệp tham gia thỏa thuận hạn chế cạnh tranh đã thống nhất cùng nhau thực hiện những hành vi phản cạnh tranh, bóp méo thị trường- Hậu quả của thỏa thuận hạn chế cạnh tranh là làm giảm sức ép cạnh tranh, làm sai lệch hoặc cản trở cạnh tranh trên thị loại thỏa thuận hạn chế cạnh tranh Dựa vào vị trí của các chủ thể tham gia thỏa thuận hạn chế cạnh tranh trong chuỗi quá trình sản xuất kinh đoanh , có thể phân thành thỏa thuận hạn chế cạnh tranh theo chiều dọc và thỏa thuận hạn chế cạnh tranh theo chiều thuận theo chiều ngang horizontal agreements/cartel là thỏa thuận giữa các chủ thể kinh doanh trong cùng ngành hàng và cùng khâu của quá trình kinh doanh ví dụ thỏa thuận giữa các nhà sản xuất, những người bán buôn với nhau, giữa những người bán lẻ với nhauThỏa thuận theo chiều dọc vertical agreement/vertical restraints là thỏa thuận hợp tác giữa hai hay nhiều doanh nghiệp hoạt động ở những khâu khác nhau trong quá trình sản xuất, hoặc phân phối, sản lượng phân phối, khách hàng giao dịch, điều kiện phân phối...Nhìn chung, các thỏa thuận theo chiều dọc phần lớn ít gây ảnh hưởng nghiêm trọng tới môi trường cạnh tranh so với thỏa thuận theo chiều ngang, cũng có thể phân loại thành thỏa thuận ngang nghiêm trọng hardcore cartel và thỏa thuận theo chiều ngang ít nghiêm trọng non - hardcore cartel.Theo khuyến nghị về các hoạt động hêu quả chống hardcore cartel của Tổ chức Hợp tác và phát triển kinh tế OECD 1998, "hardcore cartel là một thỏa thuận hay thống nhất ý chí cùng hành động giữa các đối thủ cạnh tranh nhằm ấn định giá, gian lận thầu thông đồng đấu thầu, hạn chế sản lượng hoặc hạn ngạch, phân chia thị trường theo nhóm khách hàng, nguồn cung ứng, khu vực địa lí hay các kênh thương mại".Ngược lại có những thỏa thuận ngang mang mại lợi ích kinh tế không chỉ cho bản thân doanh nghiệp, mà còn làm lợi cho cả người tiêu dùng. Những thỏa thuận ngang như thế có thể gọi là thỏa thuận hợp tác, hay thỏa thuận ngang ít nghiêm trọng. Ví dụ như những thỏa thuận nghiên cứu phát triển R&D hay thỏa thuận định chuẩn...Các hình thức thỏa thuận hạn chế cạnh tranh ở Việt NamTheo Điều 8, Luật Cạnh tranh 2004, các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh bao gồm- Thỏa thuận ấn định giá hàng hóa, dịch vụ một cách trực tiếp hoặc gián tiếp- Thỏa thuận phân chia thị trường tiêu thụ, nguồn cung các hàng hóa, cung ứng dịch vụ- Thỏa thuận hạn chế hoặc kiểm soát số lượng, khối lượng sản xuất, mua, bán hàng hóa, dịch vụ- Thỏa thuận hạn chế phát triển kĩ thuật, công nghệ, hạn chế đầu tư- Thỏa thuận áp đặt cho doanh nghiệp khác điều kiện kí kết hợp đồng mua, bán hàng hóa, dịch vụ hoặc buộc doanh nghiệp khác chấp nhận các nghĩa vụ không liên quan trực tiếp đến đối tượng của hợp đồng- Thỏa thuận ngăn cản, kìm hãm, không cho doanh nghiệp khác tham gia thị trường hoặc phát triển kinh doanh- Thỏa thuận loại bỏ khỏi thị trường những doanh nghiệp không phải là các bên của thỏa thuận- Thông đồng để một hoặc các bên của thỏa thuận thắng thầu trong việc cung cấp hàng hóa, cung ứng dịch vụ.Tài liệu tham khảo, Luật kinh tế chuyên khảo, NXB Lao động
Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh là gì? Đặc điểm của thỏa thuận hạn chế cạnh tranh? Phân loại thỏa thuận hạn chế cạnh tranh? Các hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh bị cấm?Trong xu thế phát triển kinh thế thế giới nhanh chóng và dễ bị đào thải thì buộc các doanh nghiệp phải nỗ lực để đạt được nhiều lợi thế hơn các đối thủ. Khi đối mặt với vấn đề cạnh tranh có rất nhiều vấn đề phát sinh đặc biệt là khả năng thu lợi nhuận và sự tồn vong của doanh nghiệp. Cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường tạo ra cho các doanh nghiệp áp lực giảm giá thành, cải tiến chất lượng và đa dạng hóa hàng hóa, dịch vụ mà mình cung cấp. Để giảm áp lực cạnh tranh và gia tăng lợi nhuận ngắn hạn, các doanh nghiệp có thể tìm cách liên kết với nhau thay vì nỗ lực điều chỉnh, nâng cao năng lực cạnh tranh để tồn tại và phát triển trong bối cảnh mới. Các doanh nghiệp nhằm duy trì thị phần và lợi nhuận kinh doanh đã dàn xếp và thỏa thuận với nhau dấn tới là sự độc quyền hóa thị trường, theo đó các vấn đề quan trọng của thị trường như giá cả, sản lượng, khách hàng,…không còn tuân thủ theo quy luật thị trường mà bị khống chế bởi một nhóm các doanh nghiệp tham gia thỏa thuận. Tư vấn pháp luật trực tuyến miễn phí qua tổng đài Mục lục bài viết 1 1. Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh là gì? 2 2. Đặc điểm của thỏa thuận hạn chế cạnh tranh 3 3. Phân loại thỏa thuận hạn chế cạnh tranh 4 4. Các hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh bị cấm Thỏa thuận theo được định nghĩa là “hoạt động giữa hai hay nhiều người với nhau bằng hành vi hoặc không bằng hành vi để nhằm đạt được một cùng mục đích nhất định” Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh được coi là hành vi giữa các các chủ thể thống nhất ý chí để nhằm đạt được mục đích kinh doanh nhất định. Khái niệm thỏa thuận hạn chế cạnh tranh được nhìn nhận dưới nhiều góc độ khác nhau, cho ta cái nhìn toàn diện về thuật ngữ nàyDưới góc độ kinh tế học, thỏa thuận hạn chế cạnh tranh được nhìn nhận là sự thống nhất cùng hành động của nhiều doanh nghiệp nhằm giảm bớt hoặc loại bỏ sức ép của cạnh tranh hoặc hạn chế khả năng hành động một cách độc lập giữa các đối thủ cạnh góc độ khoa học pháp lý có thể hiểu thỏa thuận hạn chế cạnh tranh là sự thống nhất ý chí của từ 2 chủ thể kinh doanh trở lên được thể hiện dưới bất kỳ hình thức nào, có hậu quả làm giảm, sai lệch, cản trở cạnh tranh trên thị trường. Như vậy, có thể hiểu, thỏa thuận hạn chế cạnh tranh là sự thống nhất cùng hành động của nhiều doanh nghiệp nhằm giảm bớt hoặc loại bỏ sức ép của cạnh tranh hoặc hạn chế khả năng hành động một cách độc lập giữa các đối thủ cạnh tranh. Pháp luật Việt Nam chưa có một định nghĩa cụ thể thế nào là thỏa thuận hạn chế cạnh tranh mà chỉ liệt kê các hành vi được coi là thỏa thuận hạn chế cạnh tranh tại điều 11 Luật cạnh tranh 2018. 2. Đặc điểm của thỏa thuận hạn chế cạnh tranh Thứ nhất, về chủ thể tham gia thỏa thuận hạn chế cạnh tranh là các doanh nghiệp hoạt động độc lập. Theo Luật Cạnh tranh 2018 thì thỏa thuận hạn chế cạnh tranh diễn ra giữa các doanh nghiệp. Doanh nghiệp theo quy định của luật doanh nghiệp 2014 thì được hiểu là tổ chức kinh tế có tên riêng, tài sản riêng, có trụ sở giao dịch ổn định và được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh. Còn trong pháp luật cạnh tranh thì doanh nghiệp bao gồm tổ chức, cá nhân kinh doanh. Các doanh nghiệp tham gia thỏa thuận phải hoạt động độc lập với nhau và hoàn toàn không phụ thuộc với nhau về tài chính. Ý chí của các doanh nghiệp tham gia thỏa thuận cũng phải là ý chí độc lập của mối bên, không thể bị ép buộc. Thỏa thuận hạn chế cạnh trang có thể diễn ra giữa các doanh nghiệp là đối thủ cạnh tranh của nhau trên một thị trường liên quan hoặc giữa các bên không phải đối thủ của vậy, trường hợp công ty mẹ – công ty con, hay giữa công ty với đại lý của mình có sự thỏa thuận thì không coi là thỏa thuận hạn chế cạnh tranh. Thứ hai, thỏa thuận hạn chế cạnh tranh chỉ được hình thành khi có sự thống nhất ý chí của các bên tham gia thỏa thuận. Sự thống nhất cùng hành động giữa các doanh nghiệp tham gia thỏa thuận được thể hiện công khai hoặc không công khai. Đây là dấu hiệu quan trọng nhất của thỏa thuận hạn chế cạnh tranh, các hành vi giống nhau của các doanh nghiệp chưa đủ để chứng minh là đã có thỏa thuận giữa họ, mà phải có sự thống nhất ý chí cùng hành động của các bên tham gia thỏa thuận. Ở dấu hiệu này, chúng ta cần phân biệt sự thống nhất ý chí của các doanh nghiệp với sự thống nhất về mục đích của doanh nghiệp khi tham gia thỏa thuận hạn chế cạnh tranh. Khi thống nhất thực hiện hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh, các doanh nghiệp có thể cùng hoặc không cùng một mục đích theo đuổi./ Ví dụ Đều cùng tham gia một thỏa thuận nhưng doanh nghiệp A có mục đích mở rộng thị trường nhưng doanh nghiệp B lại muốn loại bỏ một doanh nghiệp khác là đối thủ cạnh tranh Nội dung thỏa thuận thường là về việc ấn định giá, phân chia thị trường tiêu thụ, hạn chế nguồn cung. Pháp luật Việt Nam chỉ ghi nhận một thỏa thuận vi phạm một trong các hình thức vi phạm thỏa thuận hạn chế cạnh tranh khi đã có đủ bằng chứng kết luận giữa họ đã tồn tại một hợp đồng chính thức bằng văn bản hợp đồng, bản ghi nhớ…; hoặc có thể bằng hình thức không thành văn bản như các cuộc gặp mặt, họp bàn… nhưng phải có sự ghi nhận ở những tài liệu liên quan. Các doanh nghiệp tham gia thỏa thuận hạn chế cạnh tranh có thể nhằm cùng một mục đích hoặc nhiều mục đích khác nhau. Tuy nhiên, dù với mục đích nào thì doanh nghiệp đã có sự thống nhất ý chí về cùng thực hiện một hành động nào đó đều bị coi là hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh. Yếu tố hành vi được coi là điều kiện cơ bản, bởi nếu mới chỉ dừng lại ở ý định, ý tưởng những chưa có sự thỏa thuận trên thực tế thì không thể coi là thỏa thuận hạn chế cạnh tranh. Thứ ba, hậu quả của thỏa thuận hạn chế cạnh tranh là làm giảm sức ép cạnh tranh, làm sai lệch hoặc cản trở cạnh tranh trên thị trường. Thỏa thuận cạnh tranh gây ra cho thị trường sự xóa bỏ cạnh tranh, các đối thủ trên thị trường sẽ không còn cạnh tranh nữa. Hậu quả của nó có ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của người tiêu dùng và gây thiệt hại cho các doanh nghiệp không tham gia việc thỏa thuận. 3. Phân loại thỏa thuận hạn chế cạnh tranh Tại Điều 11 Luật Cạnh tranh 2018 thỏa thuận hạn chế cạnh tranh bao gồm các hành vi sau đâyThỏa thuận ấn định giá hàng hóa, dịch vụ một cách trực tiếp hoặc gián tiếp; Thỏa thuận phân chia khách hàng, phân chia thị trường tiêu thụ, nguồn cung cấp hàng hóa, cung ứng dịch vụ; Thỏa thuận hạn chế hoặc kiểm soát số lượng, khối lượng sản xuất, mua, bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ; Thỏa thuận để một hoặc các bên tham gia thỏa thuận thắng thầu khi tham gia đấu thầu trong việc cung cấp hàng hóa, cung ứng dịch vụ; Thỏa thuận ngăn cản, kìm hãm, không cho doanh nghiệp khác tham gia thị trường hoặc phát triển kinh doanh; Thỏa thuận loại bỏ khỏi thị trường những doanh nghiệp không phải là các bên tham gia thỏa thuận; Thỏa thuận hạn chế phát triển kỹ thuật, công nghệ, hạn chế đầu tư; Thỏa thuận áp đặt hoặc ấn định điều kiện ký kết hợp đồng mua, bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ cho doanh nghiệp khác hoặc thỏa thuận buộc doanh nghiệp khác chấp nhận các nghĩa vụ không liên quan trực tiếp đến đối tượng của hợp đồng; Thỏa thuận không giao dịch với các bên không tham gia thỏa thuận; Thỏa thuận hạn chế thị trường tiêu thụ sản phẩm, nguồn cung cấp hàng hóa, cung ứng dịch vụ của các bên không tham gia thỏa thuận khác gây tác động hoặc có khả năng gây tác động hạn chế cạnh tranh; Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh có thể phân loại theo hai dạng là thỏa thuận theo chiều ngang và thỏa thuận theo chiều dọc như sau Thỏa thuận theo chiều ngang là thỏa thuận giữa các doanh nghiệp có cùng ngành hàng hoạt động trên cùng một thị trường liên quan như thỏa thuận giữa các nhà sản xuất hay giữa những nhà những nhà bán buôn hoặc giữa những nhà bán lẻ của những loại sản phẩm tương tự nhau. Nội dung của thỏa thuận liên quan đến ấn định giá mua bán hàng hóa, dịch vụ, phân chia thị trường, ngăn cản doanh nghiệp khác tham gia thị trường, thông đồng trong đấu thầu, hạn chế hoặc kiểm soát số lượng, khối lượng sản xuất, mua bán hàng hóa, dịch vụ. Thỏa thuận theo chiều dọc là các thỏa thuận liên quan đến việc bán lại những sản phẩm từ nhà sản xuất hay nhà cung cấp, do đó nó diễn ra giữa các doanh nghiệp ở các công đoạn khác nhau trong quá trình sản xuất, phân phối sản phẩm như thỏa thuận giữa nhà sản xuất và nhà phân phối. Thỏa thuận theo chiều dọc không tạo ra khả năng khống chế thị trường. Các thỏa thuận phổ biến theo chiều dọc thường có các nội dung phân phối độc quyền theo lãnh thổ, giao dịch độc quyền, buộc các doanh nghiệp tham gia vào mạng lưới phân phối của nhà sản xuất…; thỏa thuận ấn định giá bán lại. 4. Các hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh bị cấm Pháp luật Việt Nam chỉ công nhận 11 hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh tại điều 11 Luật cạnh tranh 2018 và cấm các hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh sau đây Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trên cùng thị trường liên quan Thỏa thuận ấn định giá hàng hóa, dịch vụ một cách trực tiếp hoặc gián tiếp; Thỏa thuận phân chia khách hàng, phân chia thị trường tiêu thụ, nguồn cung cấp hàng hóa, cung ứng dịch vụ; Thỏa thuận hạn chế hoặc kiểm soát số lượng, khối lượng sản xuất, mua, bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ. Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh giữa các doanh nghiệp quy định tại các khoản 4, 5 và 6 Điều 11 của Luật cạnh tranh 2018 Thỏa thuận để một hoặc các bên tham gia thỏa thuận thắng thầu khi tham gia đấu thầu trong việc cung cấp hàng hóa, cung ứng dịch vụ; Thỏa thuận ngăn cản, kìm hãm, không cho doanh nghiệp khác tham gia thị trường hoặc phát triển kinh doanh; Thỏa thuận loại bỏ khỏi thị trường những doanh nghiệp không phải là các bên tham gia thỏa thuận. Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trên cùng thị trường liên quan quy định tại các khoản 7, 8, 9, 10 và 11 Điều 11 của Luật này khi thỏa thuận đó gây tác động hoặc có khả năng gây tác động hạn chế cạnh tranh một cách đáng kể trên thị trường Thỏa thuận hạn chế phát triển kỹ thuật, công nghệ, hạn chế đầu tư; Thỏa thuận áp đặt hoặc ấn định điều kiện ký kết hợp đồng mua, bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ cho doanh nghiệp khác hoặc thỏa thuận buộc doanh nghiệp khác chấp nhận các nghĩa vụ không liên quan trực tiếp đến đối tượng của hợp đồng; Thỏa thuận không giao dịch với các bên không tham gia thỏa thuận; Thỏa thuận hạn chế thị trường tiêu thụ sản phẩm, nguồn cung cấp hàng hóa, cung ứng dịch vụ của các bên không tham gia thỏa thuận; Thỏa thuận khác gây tác động hoặc có khả năng gây tác động hạn chế cạnh tranh. Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh giữa các doanh nghiệp kinh doanh ở các công đoạn khác nhau trong cùng một chuỗi sản xuất, phân phối, cung ứng đối với một loại hàng hóa, dịch vụ nhất định quy định tại các khoản 1, 2, 3, 7, 8, 9, 10 và 11 Điều 11 của Luật cạnh tranh 2018 khi thỏa thuận đó gây tác động hoặc có khả năng gây tác động hạn chế cạnh tranh một cách đáng kể trên thị trường.
ví dụ về thỏa thuận hạn chế cạnh tranh